Sở Giáo dục và Đào Tạo Bến Tre

Góc tham luận - Trao đổi

Đổi mới phương pháp dạy học - Một chặng đường cộng hưởng

Email In PDF.

(GD&TĐ) - Đổi mới phương pháp dạy học (ĐMPPDH) song hành cùng đổi mới chương trình – sách giáo khoa (CT-SGK) đã được tiến hành hơn chục năm qua  một cách kiên trì, bền bỉ và rộng khắp. Tuy chưa thật sự đạt được mức độ tương xứng với yên cầu đổi mới GD phổ thông, nhưng việc đổi mới CT-SGK đi kèm với ĐMPPDH của giáo viên (GV) đã làm cho việc học của học sinh trở nên tích cực hơn, chủ động hơn, làm tiền đề cho các em phát triển bản thân tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai. Điều này đặc biệt được thể hiện  từ khi nhiệm vụ ĐMPPDH có sự cộng hưởng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực (THTT,HSTC)”  và cuộc vận động “Mỗi thầy giáo cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.

Đọc thêm...
 

Dạy giỏi thôi - chưa đủ!

Email In PDF.

(GD&TĐ) - Trong quy định về chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học, các yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống có nội dung yêu cầu GV tiểu học phải: “Hết lòng giảng dạy và giáo dục học sinh bằng tình thương yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo”. Đó có thể là nội dung yêu cầu gần nhất với chữ “tâm” khi người thầy “đứng lớp”. Tuy nhiên, sự tận tuỵ, tình yêu thương và trách nhiệm của GV khó có thể “chấm điểm”, hay “chỉ rõ” mỗi khi bình bầu thi đua cuối năm trong tổ, khối, trường...

Ngồi thẳng lên con không... vẹo lưng, cận thị

Có lẽ chẳng ai nghĩ đến chuyện “phạt” một giáo viên khi thấy cảnh trong lớp phần lớn HS cúi gằm mặt sát vở khi viết bài, thậm chí có em gần như bò xoài người ra bàn để viết. Cũng chưa thấy có phụ huynh nào dám “bắt đền” GV, vì trước khi đi học, đôi mắt của con họ “sáng”, “khoẻ”, đạt 10/10, nhưng sau một thời gian đến lớp tập viết, học bài... bố mẹ đã phải đưa con đến bác sĩ khám, đo độ loạn thị...

 

Kỹ năng cuộc sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực cho phép bạn và bạn của bạn đối mặt với những thức thách của cuộc sống hàng ngày. Kỹ năng cuộc sống bao gồm: Kỹ năng giao tiếp; Kỹ năng ra quyết định; Kỹ năng quan hệ; Kỹ năng giải quyết vấn đề; Kỹ năng thiết lập mục tiêu; Kỹ năng suy nghĩ tích cực; Kỹ năng kiểm soát tình cảm; Kỹ năng quyết đoán; Kỹ năng phát triển lòng tự trọng; Kỹ năng tránh áp lực đồng đẳng; Những giá trị cá nhân.

Một HS lớp 2 ở Hà Nội, khi từ trường trở về nhà đã kể với bố mẹ: “Cô H (cô giáo chủ nhiệm) nói có khi cả lớp con phải trang bị dụng cụ chống cận thị chứ không thì hỏng hết mắt... Mới lên lớp 2 mà ai bò ra bàn để viết...”.

Cô H vừa chuyển công tác đến trường, được nhận chủ nhiệm lớp 2 mới vài tháng, nhưng phụ huynh trong lớp xì xào chê kỹ năng sư phạm của cô kém, chữ viết của HS trong lớp xấu hẳn so với năm học trước. Cuối năm, cô H cũng “lọt thỏm” giữa “rừng” GV giỏi và có uy tín lâu năm trong trường.

Câu chuyện thể hiện sự ái ngại của cô H về tư thế ngồi học, ngồi viết của HS rồi cũng “nhạt” mất giữa bộn bề giáo án phải soạn để dạy ngày 2 buổi, giữa mối lo phải dạy bao nhiêu môn từ “chính” đến “phụ”, tiết này lại tiết khác.

Trường đạt chuẩn quốc gia, nhưng một lớp sĩ số thì tới hơn 50 HS, với hơn 50 khả năng tiếp thu, tính cách khác nhau, mà GV phải tìm hiểu, uốn nắn. Rồi còn bàn học đã được thiết kế với cả hai chức năng vừa để làm chỗ viết, vừa để làm chỗ ngủ trưa thì làm sao lắp cố định thiết bị chống cận thị, vẹo cột sống (*)... Có một thời gian dư luận trong trường tiểu học nhắc đến một dụng cụ được gắn vào bàn học giúp HS ngồi thẳng khi viết. Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, không mấy ai nói đến việc trang bị dụng cụ này, vì nhiều người cho là bất tiện ở trong một lớp học “đa chức năng” vừa là chỗ học vừa là chỗ ngủ, nghỉ của HS bán trú.

Không biết có phải vì quá nhiều công việc phải làm, mệt mỏi và căng thẳng xoay mình với mấy chục HS trên lớp, mà bây giờ thật hiếm HS được nghe được những lời nhắc nhở nhẹ nhàng từ GV khi viết bài, đọc sách: “Ngồi thẳng lên con”, “ngẩng đầu cao lên con”... Ngoài những buổi dự giờ, những tiết lên lớp để thi GV dạy giỏi, để kiểm tra chuyên môn... hiện nay, liệu có bao nhiêu GV quan tâm đến tư thế ngồi học của HS nói riêng và sức khỏe của các em nói chung hơn việc phải hoàn thành bài, hoàn thành chương trình môn học, bằng việc phải nỗ lực nâng cao chất lượng, nâng cao kết quả giảng dạy qua điểm số của HS?

Trong quy định về chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học, các yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống có nội dung yêu cầu GV tiểu học phải: “Hết lòng giảng dạy và giáo dục học sinh bằng tình thương yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo”. Đó có thể là nội dung yêu cầu gần nhất với chữ “tâm” khi người thầy “đứng lớp”. Tuy nhiên, sự tận tuỵ, tình yêu thương và trách nhiệm của GV khó có thể “chấm điểm”, hay “chỉ rõ” mỗi khi bình bầu thi đua cuối năm trong tổ, khối, trường... “Tâm” của thầy, cô chỉ còn được nhắc đến trong câu chuyện của phụ huynh và chính HS của họ.

a
HS cần được học kỹ năng sống (ảnh MH)

Con chỉ thích học cô A

Dịp 20/11, trường như rộn ràng hơn bởi những bó hoa rực rỡ của ban phụ huynh các lớp, những túi quà, tấm thiếp mừng lăm lăm trên tay nhiều phụ huynh vào đầu và cuối buổi học. Ít ai để ý ở trước cổng trường tiểu học T (Hà Nội) một nhóm HS lớp 5 tíu tít quanh hàng bán hoa rong, từng bông hoa được gói sơ sài trong lớp nilon mỏng bán với “giá chung” ngày Lễ thầy cô 10.000đ/bông. Bàn tính một hồi, mỗi em mua một bông hoa rồi chạy vào trong trường. Cả nhóm ùa đến bên một cô giáo dạy lớp 1 đang đứng trò chuyện với phụ huynh ở cửa lớp: “Con tặng cô, con tặng cô...”.

Những bông hoa nho nhỏ nằm sau lớp nilon mỏng oặt ẹo đến tay cô giáo khi chính cô cũng chưa kịp nhận ra đó là HS ở lớp nào, tên là gì... thì nhóm HS đã lẫn vào rất đông HS trong sân trường. Vị phụ huynh chứng kiến cảnh đó đã kể lại cảm giác xúc động của chị còn mãi về sau, khi thấy nhóm HS đó vẫn còn biết nhớ và thể hiện tình cảm yêu quý cô giáo cũ bằng một hành động giản dị. Trong khi đó, hễ đến dịp lễ, tết, cần thể hiện sự tri ân với thầy cô thì nhiều phụ huynh chỉ nghĩ đến người đầu tiên (quan trọng nhất) cần mua quà, biếu tiền... là GV đang dạy con mình ở năm học này chứ không phải GV từng dạy ở những năm học trước.

Vậy nhưng, khi đánh giá về một GV, phụ huynh lại có những nhận xét rất cụ thể. Tham gia cuộc trò chuyện với một số phụ huynh có con học Trường THCS Đ (Hà Nội), chúng tôi đã ghi lại được không ít lời phụ huynh nhận xét GV rất trực diện: “Lớp con tôi năm nay đổi một loạt GV rồi. Dạo này nó hay kể với bố mẹ: Thầy An chán lắm! Thầy Chữ thì tuyệt vời. Cô Nhung giảng bài dễ hiểu, thuộc luôn bài trên lớp...”. “Đã làm thầy cô thì phải có “tâm”, HS mới thích học, chứ dạy chuyên, dạy giỏi gì cũng không quan trọng bằng”... Mỗi ngày con đi học ở trường về, phụ huynh thường hỏi con được điểm mấy? Cô giáo, thầy giáo dạy có dễ hiểu không hay thậm chí có những phụ huynh luôn lắng nghe và tìm hiểu xem bọn trẻ nghĩ gì, nhận xét về cô giáo, thầy giáo đang dạy chúng.

“Chọn trường không bằng chọn cô” là câu nói khá quen thuộc hiện nay trong phụ huynh đang có con ở lứa tuổi tiểu học. Xin cho con được vào học một trường tốt (có uy tín, chất lượng) được học cô A dạy giỏi... là mong muốn của mỗi bậc cha mẹ.

Cô có cần đến “kỹ năng sống”?

Những năm gần đây, nhiều GV, phụ huynh bắt đầu quan tâm hơn đến vấn đề kỹ năng sống của HS. Nhiều lớp dạy kỹ năng sống cho HS “mọc” lên ở khắp nơi, cả ở ngay trong trường học. Sau buổi học hàng ngày, một số HS đã được bố mẹ đăng ký cho tham gia lớp học kỹ năng sống. Nhiều phụ huynh và GV hiểu nôm na rằng học kỹ năng sống là học những gì cần thiết bên cạnh những kiến thức văn hóa (theo chuẩn chương trình) mà HS bắt buộc phải tiếp thu trong giờ học chính khóa. Cùng với việc khuyến khích phụ huynh cho HS tham gia lớp kỹ năng sống, GV cũng được hướng dẫn, khuyến khích lồng ghép nội dung kỹ năng sống vào một số bài học, một số tiết học... Tuy nhiên, có điều đáng nói là, trong khi HS được quan tâm hơn đến việc rèn kỹ năng sống, thì chính một số GV lại tỏ ra ít quan tâm đến kỹ năng sống của chính mình.

Một phụ huynh có con đang học mầm non đã rất khó khăn khi xin cho con một suất vào học ở trường “điểm” trong quận. Tuy nhiên, sau đó, phụ huynh này đã phải tìm “đường” chuyển trường khác cho con, vì lý do: “GV trường này rất kiêu. Chăm trẻ thì ít, toàn giao cho các giáo sinh thực tập. Khi phụ huynh chào hỏi thì mặt lạnh như kem. Cử chỉ, hành động với trẻ không dịu dàng...”. Còn một phụ huynh khác chỉ mới cho con học hết lớp 1 ở trường công lập, đến lớp 2 lập tức chuyển sang dân lập. Với lý do: “Ở đó dạy nhồi nhét, học cả ngày ở trường rồi mà vẫn giao bài tập về nhà, bắt HS phải làm bài tập cả buổi tối, khiến cha mẹ HS cũng phải dạy học...”.

Và hàng loạt vấn đề nảy sinh trong việc xưng hô với HS mầm non đó là một trong những biểu hiện của sự thiếu hụt, thiếu rèn luyện về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng quan hệ trong kỹ năng sống của GV. Bên cạnh đó, kỹ năng kiểm soát tình cảm, một kỹ năng sống quan trọng đối với GV trong quá trình tiếp xúc với HS mỗi ngày cũng vô cùng quan trọng.

Trước những HS chưa ngoan, lười học, thậm chí đối phó và phản ứng với buổi dạy của GV, nếu một GV kiểm soát được tình cảm thì có thể có những ứng phó hợp lý để đưa HS vào “quỹ đạo” cần thiết; song, nếu GV không kiểm soát được tình cảm, gặp tình huống HS không chịu làm bài, phạm lỗi trong giờ học... thì có thể nóng giận, bực bội, dẫn đến ứng xử thiếu kiềm chế như mắng, thậm chí đánh HS.

Cùng với ứng xử thiếu kiềm chế, có GV còn tỏ ra bàng quan khi được phản ánh trong lớp, trong trường có HS đánh nhau, HS trêu chọc bạn. Coi đó là những chuyện “khó tránh khỏi”, thậm chí đó là “chuyện thường”, khiến việc HS “mách” thầy, cô khi bị bạn trêu chọc, bị đánh... có khi còn bị thầy, cô “vô tình quên”, hoặc lờ đi... trong nỗi ấm ức của HS.

Nếu cho rằng HS đang rất cần được học kỹ năng sống, vì kỹ năng cuộc sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực giúp HS vượt qua những thức thách của cuộc sống hàng ngày; thì ngược lại, chính thầy cô giáo cũng rất cần rèn luyện kỹ năng sống, để mỗi khi bước vào lớp, đứng trên bục giảng, khi giao tiếp... đều được HS và phụ huynh tin yêu.

Nguyễn Đăng Hương

(*) Những mặt bàn học được thiết kế phần gấp cho phù hợp với lớp bán trú, vào giờ nghỉ trưa GV hoặc cô nuôi mở phần gấp ra để tạo thành những “tấm phản” lớn, trải chiếu hoặc đệm cho trẻ ngủ trưa.

 

Phương pháp làm bài thi ĐH, CĐ môn Địa lý

Email In PDF.

Cùng các em học sinh!

(GD&TĐ) - Các môn thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng khối C gồm Văn, Sử, Địa. Có thể nói rằng Địa lí là môn thi các thí sinh có khả năng dễ đạt điểm cao hơn so với Lịch sử và Ngữ văn. Tuy nhiên, để làm một bài thi Đại lí đạt điểm cao trong các kì thi tuyển sinh quả là điều không phải dễ. Bằng kinh nghiệm của người nhiều năm giảng dạy và ôn luyện thi Địa lí, tôi xin được trao đổi cùng các em một số kinh nghiệm và nguyên lí để làm tốt bài thi môn Địa lí đạt điểm cao trong kì thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng.

Với cấu trúc, nội dung đề thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng của Bộ GD & ĐT ban hành thì đề thi có hai phần là lí thuyết và kĩ năng:

Phần lí thuyết các đề thi rất đa dạng, tuy nhiên có thể phân thành các dạng chủ yếu sau đây:

- Dạng đề câu hỏi lí giải.

Yêu cầu thí sinh phải trả lời câu hỏi : ‘Tại sao?”. Với dạng đề nầy, đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức và biết vận dụng chúng để giải thích một hiện tượng địa lí. Để làm bài tốt, học sinh chú ý tổng hợp các kiến thức được tích lũy và các mối liên hệ nhân quả.

- Dạng đề câu hỏi so sánh.

Yêu cầu học sinh phải phân tích được sự giống nhau và khác nhau giữa hai hay nhiều hiện tượng địa lí. Học sinh không nên trả lời theo kiểu học thuộc bài mà cần phải tổng hợp kiến thức, sau đó phân biệt được sự giống, khác nhau của các hiện tượng địa lí.

- Dạng đề câu hỏi phân tích, chứng minh.

Yêu cầu học sinh chứng minh một vấn đề nào đó về địa lí. Để làm được dạng đề câu hỏi nầy, học sinh cần nắm vững kiến thức và cả số liệu thống kê tiêu biểu để phân tích hoặc chứng minh theo yêu cầu của đề bài.

- Dạng đề thi câu hỏi trình bày.

Đây là dạng đề khá đơn giản, học sinh chủ yếu học thuộc bài là có thể trình bày tốt yêu câu của đề ra. Tuy nhiên học sinh lưu ý là cần nắm chắ đề thi hỏi “cái gì” thì trình bày “caí ấy” cho phù hợp đề bài, tránh tản mạn, lạc đề.

 Hình mang tính minh họa
Hình mang tính minh họa

Phần kĩ năng thường phổ biến các dạng như: Vẽ lược đồ Việt Nam và điển các thông tin cần thiết; Vẽ và nhận xét biểu đồ; Nhận xét bảng số liệu.

- Bảng số liệu: Tính toán và nhận xét số liệu thống kê, cần chú ý số liệu có nội dung gì, các nội dung được cụ thể hóa ở chỉ tiêu thống kê cụ thể như thế nào. Về thời gian của số liệu thống kê (một thời điểm hay một chuỗi thời điểm), các đơn vị tính của chỉ tiêu, mối quan hệ có thể có giữa các chỉ tiêu đó... Phải làm rõ được sự thay đổi của các giá trị, các chỉ tiêu theo thời gian, phải chỉ ra được khoảng tăng hoặc giảm mang tính chu kỳ, nhưng cần tránh nêu quá chi tiết mà không nêu được nội dung chính yếu.

- Biểu đồ: Cần rèn luyện các dạng biểu đồ cột, biểu đồ đường hay đồ thị, biểu đồ tròn, biểu đồ miền. Vẽ biểu đồ đòi hỏi sự chính xác về phân chia số lượng, tỷ lệ thời gian, sử dụng các ký hiệu để thể hiện nội dung khác nhau, có ghi chú. Trên biểu đồ phải ghi đầy đủ các yếu tố khác như đơn vị, tên biểu đồ.

- Nguyên tắc khi vẽ lược đồ Việt Nam là phải đảm bảo độ chính xác tương đối về hình dạng, thể hiện được các hệ thống sông chính, các điểm dân cư, khu vực hành chính cơ bản. Vận dụng kiến thức đã học để giải thích hiện tượng Địa lý, giải thích phù hợp và sát với yêu cầu, tránh dong dài.

Từ đặc điểm nội dung, yêu cầu của các dạng đề thi tuyển sinh môn Địa lí nói trên, khi làm bài, học sinh thực hiện theo các thao tác sau:

- Nhận dạng đề thi. Đây là khâu quan trọng hàng đầu, giúp học sinh không bị lệch hướng trong quá trình làm bài. Đề thi thường có từ 3 - 4 câu, trong đó phần lý thuyết thường chiếm từ 65% - 70% tổng số điểm. Cần nhận dạng được đề thi, ví như dạng trình bày hay chứng minh, biểu đồ tròn hay biểu đồ miền, số liệu đã được xử lý hay số liệu thô...

- Phát thảo đề cương cho từng câu hỏi trong đề thi nhằm giúp cho việc phân bố thời gian cho từng câu hỏi hợp lí, chính xác, tránh tình trạng thiếu sót nội dung các câu hỏi trong quá trình làm bài. Để không bị sót ý, viết lặp lại, lan man, lạc đề, vừa có thể theo dõi được bài làm, kịp thời bổ sung ý cho bài viết... thì lập dàn ý cho các câu hỏi trước khi viết là việc làm hết sức cần thiết. Ngay sau khi nhận dạng đề, thí sinh nên tập trung vạch ra các ý tương đối chi tiết theo dạng dàn ý mở. Nên lưu ý, dàn ý là những ý tiêu đề, trọng tâm chứ không phải bài viết hoàn chỉnh vì không đủ thời gian. Phân bố thời gian hợp lý cho từng câu hỏi: thí sinh nên phân bố thời gian đều và phù hợp cho các câu hỏi trong đề bài, và tiêu chí nên căn cứ vào tỷ trọng từng câu hỏi, tức là số điểm của câu hỏi. Nên dành khoảng thời gian từ 15 - 20 phút để phác thảo dàn ý, từ 10 - 15 phút cho việc kiểm tra đọc lại bài.

- Ngoài ra, trong khi làm bài thì chú ý phần dễ làm trước, khó làm sau nhưng phải đảm bảo tính hệ thống, logic trong bài làm, và nên làm ở tất cả các câu chứ không nên tập trung vào một câu nào đó. Với những số liệu thống kê dùng để minh họa cho bài làm được lấy từ sách giáo khoa, hoặc những số liệu đã được cập nhật từ bên ngoài, thí sinh cần nói rõ nguồn gốc và thời điểm của chúng. Khi vẽ biểu đồ, chú ý ghi tên biểu đồ, bảng chú giải và đặc biệt phải có sự tương thích giữa ký hiệu trong bảng chú giải với những ký hiệu đã dùng trong biểu đồ. Trình bày bài thi cũng là một khâu rất quan trọng vì giá trị của một bài thi không những thể hiện ở phần nội dung mà còn ở phương pháp trình bày. Những lợi thế về chữ viết, cách diễn đạt cũng luôn được giám khảo chú ý. Trong thực tế có rất nhiều bài thi trình bày đầy đủ nhưng kết quả không cao vì viết tắt quá nhiều, lỗi chính tả, câu văn lủng củng, trình bày lan man. Chưa kể chữ viết quá xấu sẽ làm mất hứng thú, cảm tình đối với người chấm bài. Bài thi địa lý có thể trình bày ở dạng bài gồm: mở bài, thân bài và kết luận, hoặc dùng trả lời trực tiếp vào câu hỏi, nhưng cần diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc và dễ hiểu.

Theo công bố mới nhất của Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục Bộ GD-ĐT, cấu trúc đề thi trong các kỳ thi quốc gia năm 2011 về cơ bản không thay đổi so với năm trước. Cục cũng không ban hành cấu trúc đề thi các môn, đề thi nằm trong chương trình (chiếm 80 - 90% trong đề thi). Vì vậy, nên bám sát sách giáo khoa và một tài liệu tham khảo ôn tập nhất định, không nên đọc quá nhiều tài liệu và cũng không nên học tủ vì các câu hỏi thường liên quan với nhau. Khi ôn tập, nên hệ thống kiến thức, hệ thống những vấn đề trọng tâm, những câu hỏi liên quan đến vấn đề đó. Nên tập trung học dứt điểm một vấn đề, một giai đoạn, đừng học nhảy cóc lung tung…

Chúc các em thành công!

Nguyễn Hoàng Anh

 

"Giải mã" việc học sinh lười phát biểu

Email In PDF.

(GD&TĐ) - Vừa qua, trên một số phương tiện truyền thông có đề cập đến vấn đề học sinh lười phát biểu. Thực tế qua nhiều năm giảng dạy, chúng tôi nhận thấy đây cũng là hiện trạng chung.

Nhận thấy đây là vấn đề cần được quan tâm, chia sẻ, cần được đông đảo bạn đọc góp ý để tìm ra những giải pháp, những hướng đi chung cho các nhà trường; từng bước khắc phục hiện trạng lười, ỷ lại, đợi chờ này của học sinh, đem lại những sắc thái mới, khả thi nhằm tác động tích cực cho hoạt động dạy học, chúng đổi xin được trao đổi một số quan điểm, nhìn nhận của người trong cuộc.

HS ngại phát biểu khiến lớp học
HS ngại phát biểu khiến lớp học "trầm lắng" (ảnh chỉ có tính minh họa)

Nguyên nhân do đâu:

Thực hiện một cuộc khảo sát nho nhỏ ở 4 lớp học với hơn 100 học sinh tại ngôi trường mà tôi đang trực tiếp tham gia giảng dạy về hiện tượng học sinh ngày càng lười phát biểu, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến chia sẽ của những người trong cuộc về một thực trạng đáng lo ngại này, xin được trao đổi với bạn đọc về những điều “mắt thấy, tai nghe” để làm cơ sở cho các đồng nghiệp và những ai quan tâm tham khảo cùng tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng đáng buồn này.

1. Do một số câu hỏi nhàm chán; sự nhàm chán này thường rơi vào hai khả năng: hoặc là do câu hỏi quá dễ hoặclà do câu hỏi quá khó nên chưa thu hút được tính tò mò, sáng tạo của học sinh; vì vậy mỗi khi gặp những tình huống như thế thường học sinh mang tâm lí, phản ứng khác nhau. Với câu hỏi dễ quá, thường các em có tâm lí “coi thường” không thèm trả lời, ngược lại câu hỏi quá khó các em sẽ chờ đợi hay ỷ lại cho học sinh khá, giỏi.

 2. Do áp lực khối lượng kiến thức các môn học quá nhiều: Bên cạnh các môn học trước đây, hiện nay các em còn phải học thêm các môn học khác như: Quốc phòng, các môn học tự chọn, các phân môn lồng ghép, học thêm ở trường, ở nhà thầy cô, ở các lò luyện thi để đảm bảo kiến thức cho các kỳ thi và yêu cầu của thầy cô ngày càng cao, đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm nên thời gian đầu tư việc học ở nhà có phần hạn chế, từ thực tế đó rất nhiều học sinh các em thường chỉ soạn bài đối phó, chỉ sử dụng sách hướng dẫn, sách giải bài tập ghi chép bài soạn mà không chú ý đến việc ghi nhớ theo kiểu học vẹt, không thể khắc sâu kiến thức; cá biệt có những học sinh còn mượn vở soạn của bạn về chép cho nhanh để đối phó với thầy cô bộ môn… thế nên mới có chuyện đau lòng khi một thầy giáo trong chức trách của mình đã tiến hành kiểm tra bài cũ của một học sinh, mặc dù em này đã soạn bài khá đầy đủ từ bài học đầu tiên đến bài cuối cùng nhưng lại không thể nhớ nổi một vấn đề nào liên quan đến bài học. Đây thực sự là điều đáng báo động cho toàn ngành cần phải sớm vào cuộc để có những giải pháp tích cực, những biện pháp mạnh tay để góp phần chấn chỉnh nề nếp chất lượng dạy-học.

3. Một số thầy cô quá nghiêm khắc, chưa tạo ra được sự hưng phấn cho người học, thậm chí còn tạo ra tâm lí sợ hãi, căng thẳng mệt mỏi cho học sinh, thế nên không chỉ bản thân người dạy cảm thấy áp lực, ngược lại các em cũng cảm thấy áp lực từ sự “nghiêm khắc thái quá” và đây cũng là nguyên nhân khiến trò ngày càng lụi tàn, không hưng phấn với khả năng phát biểu bài. Một kinh nghiệm cho thấy, một giờ dạy thành công phải là giờ dạy nhận được nhiều ý kiến phát biểu của học sinh, nhất là trong giai đoạn mà toàn ngành đang thực hiện cuộc vân động “hai không”, “đoạn tuyệt với đọc chép” và chủ tương “lấy học sinh làm trung tâm”.

4. Một số học sinh chưa đủ tự tin về năng lựccủa bản thân nên ngại phát biểu, một số khác do lười biếng, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp; một sốhọc sinh khác lại biết nhưng sợ sai, mà trả lời sai thì ngại , rầy rà với thầy cô, với bạn bè, nhất là bạn khác giới. Đây là vấn đề được rất nhiều đồng nghiệp đồng tình khi chúng tôi đem trao đổi. Thậm chí các em còn cho rằng, lên THPT bản thân các em lớn rồi nên phát biều nhiều sẽ ngượng.

5. Do các em càng học lên cao nên chỉ tập trung vào các môn khối, từ đó sao nhãng các “môn phụ”. Thực tế qua quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy, học sinh ngày nay rất thực dụng, chỉ quan tâm và đầu tư vào các môn học khối, các môn thi tốt nghiệp , thi Đại học, cao đẳng, nên những bộ môn các em không theo khối và đặc biệt các môn không liên quan đến thi cử như Giáo dục côn g dân, công nghệ, kỷ thuật… thường các em không đầu tư, cá biệt có những học sinh không học bài cũ, thầy cô chấm điểm thấp cũng không hề “nao núng”, thậm chí cũng không cần phát biểu để “gỡ” điểm kém, vô hình trung thầy cô đã hết “thuốc” điều trị rồi.

6. Một số giờ dạy, một số thầy cô chưa thu hút được học sinh: Những hạn chế về năng lực, phương pháp, nghệ thuật giảng dạy và cả độ nhiệt tình, “thiếu lửa” ở thầy cô giáo cũng đã góp phần “tiếp tay” cho sự lười biếng, ỷ lại. trong chờ của các cô tú cậu tú; và thực tế việc chưa khích lệ được tính tự giác xây dựng bài của học sinh do năng lực của nhà giáo đã tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa thầy và trò, và khoảng cách này sẽ không thể rút ngắn khi chính thầy cô không biết khắc phục sữa chữa, luôn yêu cầu ở trò quá cao

7. Sự im lặng của nhiều học sinh trong lớp học kéo dài đã dần trở thành căn “bệnh” lây lan cả lớp. Thực tế khi đem câu chuyện về hiện tượng học sinh lười phát biểu, em Nguyễn Thị H học sinh lớp 12A2 trường THPT Hà Huy Tập-Cẩm Xuyên-Hà Tĩnh thẳng thắn chia sẻ: “Cả lớp đều ít và lười phát biểu thì tại sao mình lại phải phát biểu nên nhiều khi biết câu trả lời nên cũng ngại giơ tay; thậm chí, giơ tay xây dựng, phát biểu nhiều còn bị một số bạn bè cho rằng mình... chơi trội”

8. Do ấn tượng không tốt của một số thầy cô trong quan hệ thầy-trò ảnh hưởng đến sự hợp tác phát biểu: Thực tế, trong hàng triệu triệu thầy cô giáo trực tiếp tham gia giảng dạy không phải thầy cô nào cũng chiếm được cảm tình của các em như nhau, một số thầy cô vì những lý do khác nhau nên ít chiếm được cảm tình của người học và đương nhiên, hậu quả là học sinh ít hợp tác, lười phát biểu, mặt khác, việc phân chia thời khóa biểu cũng phải chú ý vì các em cho rằng, việc phân sắp xếp thời khóa biểu trong một buổi học nên tránh sự gặp gỡ giao thoa của các môn tự nhiên hoặc các môn xã hội, vì như thế sẽ tạo ra sự mệt mỏi nhàm chán căng thẳng cho người học. Ví dụ một buổi học 5 tiết thì không nên sắp xếp Toán, Toán, Sinh Học, Thể dục, Hóa Học.v.v.. hoặc Văn, Văn, Giáo dục công dân, Kỷ, Vật Lý…

9. Do học sinh chưa hiểu hết tác dụng của việc xây dựng phát biểu bài: Trong thực tế, cuộc đời của mỗi con người không ai không gắn liền với một thời tuổi trẻ cắp sách đến trường, việc học sinh chăm lo xây dựng phát biểu bài  (dù câu trả lời đúng hay sai) cũng đều có tác dụng to lớn trong việc ghi nhớ, khắc sâu kiến thức cho người học, việc các em tham gia xây dựng phát biểu bài sẽ vừa góp phần giúp cho hoạt động dạy-học tích cực hơn, lớp học vì thế ngày càng sôi nổi hơn, và đương nhiên là  thầy cô như được tiếp thêm sức mạnh để dạy hưng phấn hơn, có “lửa” hơn, mặt khác tạo điều kiện cho các em tính chủ động, sáng tạo; tư duy có điều kiện phát triển, từng bước tham gia rèn luyện kỷ năng sống, kỷ năng ứng xử, kỷ năng giao tiếp cho người học, góp phần đào tạo ra thế hệ người lao động có chất lượng, chủ động hơn trong cuộc sống sau này.

10. Do ảnh hưởng của các tác động cuộc sống: Một số học sinh bị ảnh hưởng bởi các loại phim ảnh xã hội, mạng internet, trò chơi điện tử, số ít khác do hoàn cảnh gia đình, cha mẹ thường cải cọ mất đoàn kết, cuộc sống gia đình các em không hạnh phúc, một số khác ít được cha mẹ quan tâm do phải lo toan cho cuộc sống cơm áo gạo tiền, số khác do tác động của tình cảm yêu đương nam nữ nên sao nhãng việc học, và vì vậy tất yếu các em sẽ lười học và hậu quả là lười phát biểu.

Hậu quả của việc lười xây dựng phát biểu bài:

Lười xây dựng phát biểu bài trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và đang để lại những hậu quả bất lợi cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi được các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và chính thầy cô là người phải trả lời câu hỏi do mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với công việc của mình, thế là phải “ngậm hòn bồ làm ngọt”. Đáng nói hơn nữa là trong một số giờ thao giảng nhân các ngày lễ lớn, thao giảng hay thi chọn giáo viên giỏi cấp trường, dù đã được thầy cô “phím” trước nhưng nhiều khi các em bất hợp tác, giờ dạy vì vậy không được đồng nghiệp đánh giá cao. Hiện trạng này nếu kéo dài ai dám đảm bảo chất lượng dạy học đạt yêu cầu như mong muốn nếu như không muốn nói là sẽ thụt lùi???

Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh tâm lí thụ động, chờ đợi co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của bài học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy sáng tạo của người học, vì vậy trí nhớ giảm sút học lực giảm, không phát huy được ưu điểm cũng như không khắc phụ được nhược điểm của mình; đồng thời việc rèn luyện kỷ năng, khả năng giao tiếp, kỷ năng ứng xử của các em với cộng đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo dục sẽ đào tạo ra một lớp người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng định mình, co mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán , chống lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói hư tậ xấu là điều khó tránh khỏi.

căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể, giáo viên có thể vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau, để thu hút sự tò mò, hiếu kỳ, kích thích sự hứng thú của người học
Căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể, giáo viên có thể vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau, để thu hút sự tò mò, hiếu kỳ, kích thích sự hứng thú của người học (ảnh MH/Internet)

Hướng giải quyết:

Đây là bài toán không quá khó, nhưng theo chúng tôi cũng không thật sự dễ dàng nếu muốn giải quyết tận gốc rễ vấn đề này, muốn khắc phục được chúng ta càn phải nghiêm túc giải quyết từ cả hai phía người học và người dạy.

Phía người dạy, việc cần thiết là thầy cô phải tích cực trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cho chất lượng các bài giảng trước khi lên lớp, căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể, giáo viên có thể vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau, để thu hút sự tò mò, hiếu kỳ, kích thích sự hứng thú của người học. Hệ thống câu hỏi cũng phải hết sức chú ý không nên dễ quá hoặc khó quá, cung không nên quá ngắn hoặc quá dài, câu hơi cũng nên theo kiểu gợi mở, gắn liền với đời sống thực tiễn. Mặt khác, trước mỗi giờ dạy, bằng khả năng nghiệp vụ của mình, giáo viên có thể tạo ra một bầu không khí gần gũi, thân thiện, cởi mở cho người học để rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò như kể một câu chuyện vui có tính giáo dục, một tình huống pháp luật, một mẫu chuyện nho nhỏ về các nhà khoa học trong và noài nước, một vấn đề thời sự, chính trị, kinh tế mới mẻ của đất nước liên quan đến môn học nhằm giảm bớt căng thẳng áp lực cho các em, khuyến khích các em chăm học, chăm phát biểu, để “mối thầy cô thực sự là một tấm gương về tự học và sáng tạo”. Đồng thời, Bộ GD&ĐT, sở, ngành và các nhà trường THPT cũng cần xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng và xếp loại hạnh kiểm học sinh sau mối tuần, mỗi tháng, mỗi học kỳ và mỗi một năm học; có biện pháp nghiêm khắc với những học sinh lười biếng, nhác nhớn ỷ lại, tránh hiện trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”, không chạy với căn bệnh “thành tích”. Ở trường tôi, một số giáo viên chủ nhiệm cũng có cách làm khá hay (có thể không còn mới đói với một số trường)là giao cho mỗi tổ học sinh một cuốn sổ theo dõi các thành viên, trong đó mục xung phong xây dựng phát biểu bài mới là một trong nhưng tiêu chí đánh giá ý thức học tập của thành viên tổ mình; cuối mỗi tuần, mỗi tháng, trong giờ sinh hoạt lớp bao giờ cũng giành một ít thời gian cho công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh; ngoài những tiêu chí như nề nếp, chuyên cần, trực nhật vệ sinh, trang phục, làm bài tập ở nhà, chuẩn bị bài mớiv.v.. thì tham gia xây dựng phát biểu bài trở thành “phần cứng” để chấm điểm, đồng thời thầy cô cung phải có hình thức khen thưởng , chấm điểm kịp thời đối với những học sinh có câu trả lời hay; đối với những học sinh trả lời chưa tốt, thầy cô cũng phải khéo léo trong việc nhắc nhở, tránh tình trạng làm ảnh hưởng đến lòng tự trọng tự ái của học sinh; nhà trường cũng cần tổ chức các câu lạc bộ, các chuyên đề, các buổi thảo luận, ngoại khóa để tăng cường khả năng tranh luận, khả năng giao tiếp, ứng khẩu của các em.

Phía Nhà trường cũng đồng thời phải mua sắm thêm các thiết bị thí nghiệm thực hành, xây dựng thư viện đọc phục vụ cho nhu cầu học sinh học tập theo kiểu cộng đồng, và coi đây cũng là một tiêu chí thi đua của ngành, tránh tình trạng chỉ học lý thuyết chung chung làm cho việc học không gắn với hành, với khả năng ứng dụng vào đời sống thực tiên. Tránh hiện tượng nhàm chán trong các em.

Ban đại diện cha mẹ học sinh cũng phải giành thời gian quan tâm thăm lớp dự giờ, động viên thầy trò và nhà trường, quan tâm đến diến biến tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh để từ đó tìm ra các giải pháp động viên kịp thời, tránh tình trạng hiện nay là Hội chỉ mới hoạt động một chiều là nhận kế hoạch từ nhà trường, chỉ hoạt động định kỳ một năm hai lần vào dịp đầu năm và cuối môi năm học, còn mọi diễn biến khác thì hầu như phó mặc cho nhà trường và giáo viên chủ nhiệm.

Phía người học, cũng cần được cung cấp thông tin về vai trò tác dụng to lớn của việc tham gia xây dựng phát biểu bài, cần tự giác thực hiện nghĩa vụ học tập của mình, trước khi muốn thầy cô giảng dạy nhiệt tình, hết mình cho bài giảng, bởi có một thực tế hiện nay là, yêu cầu của xã hội, của học sinh, phụ huynh ngày càng cao, đò hỏi ngày càng lớn từu phía thầy cô, nhà trường, nhưng người học lại em thường bộ môn, số ít khác chỉ quan tâm đến quyền mà quên mất nghĩa vụ của mình.

Phan Anh Tú

 

Tăng cường giáo dục pháp luật và đạo đức trong các nhà trường

Email In PDF.

(GD&TĐ) - Hiện nay, những biểu hiện về suy thoái đạo đức cũng như tình trạng vi phạm pháp luật của HSSV đã gióng lên hồi chuông báo động cho gia đình, nhà trường và xã hội.

Đọc thêm...
 
Trang 6 của 16

Danh mục

Đăng nhập