Thứ ba, 29 Tháng 1 2013 09:27
(GD&TĐ) - Dạy Văn trong nhà trường phổ thông luôn là vấn đề mà xã hội quan tâm. Bên cạnh yếu tố về nội dung chương trình thì yếu tố người dạy và người học quyết định nhiều tới sự thành công trong một giờ dạy. Đổi mới dạy Văn theo hướng học sinh là bạn đọc là một trong những cách dạy hấp dẫn người học.
Trong giờ giảng văn, GV là người tổ chức cho HS hoạt động làm việc, vì vậy cần đa dạng hóa hình thức hoạt động của HS. Giáo viên có vai trò điều khiển định hướng trong các hoạt động như: đọc, đóng vai, hoạt động theo nhóm, thuyết trình, trao đổi giữa HS với nhau hoặc giữa HS với GV… kết hợp việc đưa power point vào trình chiếu.
Đổi mới phải hiểu không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà trên cơ sở là phát huy những cái tích cực trên nền tảng đó cho phù hợp với xu thế hiện đại. Đổi mới PPDH phải là sự kế thừa có chọn lọc các PPDH truyền thống kết hợp với các PPDH hiện đại. Cốt lõi của vấn đề là HS phải được làm việc để tự lĩnh hội, khám phá tác phẩm. Giờ văn không chỉ cung cấp kiến thức mà còn rèn cho HS kỹ năng để HS chiếm lĩnh kiến thức. Cho nên cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi, cách nêu vấn đề và đưa các PPDH vào từng bài phụ thuộc vào kinh nghiệm và sự khéo léo của người thầy.
Giáo sư Phan Trọng Luận - một trong những giáo sư đầu ngành về phương pháp dạy học từng chia sẻ: Trong giờ giảng văn thì hoạt động đọc rất được quan tâm. Tiếc rằng có người hiểu không kỹ càng cho rằng “đọc hiểu” là đặc trưng của dạy học văn. Đọc hiểu chỉ là một hình thức, một mức độ của đọc văn bản văn học mà thôi.
Đọc có nhiều cách: đọc hiểu, đọc diễn cảm, đọc phân vai, đọc nghệ thuật, đọc sáng tạo…và cao nhất là đọc thẩm mỹ. Đọc hiểu là đọc đúng nội dung phản ánh trong tác phẩm. Đọc thẩm mỹ là cách đọc cao nhất, nó cần có sự đồng cảm giữa người đọc với tác giả thông qua tác phẩm, thực chất là quá trình cộng hưởng cảm xúc. Khi người đọc, đọc thông tin mà câu chữ đưa đến và đọc cả thông tin mà câu chữ không đưa đến. Người đọc dùng kinh nghiệm và vốn sống của mình để cảm nhận điều nhà văn gửi gắm qua văn bản thì đó là đọc sáng tạo. Chính việc đọc thẩm mỹ tác phẩm sẽ góp phần tạo không khí văn chương trong giờ học, đưa người học tiếp cận tác phẩm đến gần với cảm xúc tác giả.
Chính cách tiếp cận bắt đầu từ tác phẩm qua các mức độ đọc, HS sẽ được sống trong môi trường văn học, được cảm được nghĩ và sẽ là cơ sở để bày tỏ tình cảm. Để phát huy tính chủ thể của người học, giáo viên nên định hướng cho HS nhưng không làm thay cho các em phát biểu những cảm nhận riêng.
Hiện nay, bên cạnh những GV áp dụng cách dạy phát huy tính chủ thể cá nhân người học vẫn còn nhiều GV vẫn dạy theo cách áp đặt vì vậy dẫn đến cách học thụ động theo hướng đọc chép. Điều đó đang là rào cản trong quá trình dạy và học.
Trong giờ giảng văn thì những lời bình của người thầy sẽ có tác dụng lớn không chỉ tạo không khí văn chương trong giờ giảng mà còn bồi dưỡng cách đánh- giá, thẩm bình cho các em. Điều cốt lõi để HS yêu thích môn văn là GV cần bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học tự tìm hiểu.
Trong bối cảnh xã hội phát triển hiện nay mỗi GV cần phải thấy việc tự thay đổi tìm tòi trong quá trình dạy học là một hoạt động thường xuyên và liên tục. Cô Phạm Thị Giang, Phó Hiệu trưởng của trường THPT tại Ninh Bình chia sẻ: Theo xu thế phát triển chung, môn văn cũng không nằm ngoài quy luật cần phải có sự đổi mới từ vấn đề chương trình, SGK và cả cách ra đề đánh giá. Có như vậy việc đổi mới mới đồng bộ và đáp ứng được một cách toàn diện.
Như vậy việc đổi mới cách dạy học văn nên đi từ những vấn đề thiết thực gần gũi, mục đích chính là nhằm tập trung hình thành cho HS phương pháp học. Có như vậy việc dạy và học văn mới trở nên tự nhiên nhẹ nhàng không gò ép theo một khuôn mẫu chung, giúp HS tự học, tự khám phá, tự kích thích sáng tạo.
Hồng Vân
Thứ năm, 24 Tháng 1 2013 21:52
(GD&TĐ) - Sinh thời Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến giáo dục toàn diện, với sự cân bằng cả về giáo dục đức lẫn tài và mối quan hệ giữa hai mặt đó trong sự hoàn thiện nhân cách của con người mới – con người xã hội chủ nghĩa. Người từng dạy: "Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất". Đồng thời Người còn chỉ rõ: “Việc giáo dục gồm có: đức, trí, thể, mỹ”. Nền giáo dục toàn diện ngày nay chúng ta hướng tới không nằm ngoài lời dạy của Người, thể hiện qua sự vận dụng sáng tạo kết hợp với chắt lọc sự tiên tiến của các nền giáo dục trong khu vực và trên thế giới.
 |
Tự học, tự rèn luyện là yếu óố cốt lõi trong mục tiêu xây dựng xã hội học tập. Ảnh: Việt Thành |
Tư tưởng giáo dục toàn diện của Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta thấy được mô hình chung của con người phải đào tạo trên những định hướng chính về các mặt phẩm chất và tài năng cùng mối liên hệ giữa các mặt đó với nhau để cùng hoàn thiện nhân cách. Đó là cơ sở tư tưởng và lý luận để chúng ta vạch ra chiến lược con người cho thế kỷ XXI, trước mắt là đến năm 2020, trong đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định nòng cốt thực hiện là ngành Giáo dục và Đào tạo.
Trong tư tưởng về phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề tự học và học tập suốt đời. Người quan niệm: "Về cách học, phải lấy tự học làm cốt". Điều này tương đồng với quan điểm của Lênin: “Học, học nữa, học mãi”. Tư tưởng tự học của Người có thể quy thành 5 vấn đề:
1 - Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn.
2 - Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
3 - Muốn tự học thành công, phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại.
4- Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để tự học.
5- Học đến đâu, ra sức luyện tập thực hành đến đó.
Đây là cống hiến to lớn và quý báu của Người vào lý luận dạy - học của nước ta mà trong suốt bao năm qua ngành Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện một cách hiệu quả. Ngày nay, xã hội chúng ta là một xã hội học tập, học tập không ngừng. Đảng và Nhà nước đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của nước nhà; chỉ có đẩy mạnh giáo dục – đào tạo mới có thể đưa đất nước sớm “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong đợi. Riêng đối với ngành Giáo dục, không những ngày càng đẩy mạnh đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm mà việc học đi đôi với hành đã thực sự được chú trọng, qua đó góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo nước nhà thời gian qua.
Bên cạnh đề cao việc “tự học”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải nhận thức đúng đắn "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng". Tư tưởng lớn này tạo ra sức mạnh để huy động tất cả mọi lực lượng chính quyền, đoàn thể, gia đình và xã hội tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, không chỉ bằng mặt vật chất, mà chủ yếu là để xây dựng mặt con người mới cho thế hệ trẻ - những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Còn nhớ sinh thời mặc dù bận trăm công ngàn việc, Người vẫn quan tâm theo dõi chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, như phong trào “dạy tốt, học tốt”, “người tốt, việc tốt”. Tư tưởng “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” của Người đã được Đảng, nhân dân ta và ngành Giáo dục và Đào tạo vận dụng một cách sáng tạo thành phong trào xã hội hoá giáo dục đang phát triển sôi nổi và rộng khắp trên phạm vi cả nước hiện nay trên cơ sở xây dựng mối quan hệ giữa ba lực lượng giáo dục: Nhà trường - Gia đình - Xã hội.
Trên cả nước, mạng lưới cơ sở giáo dục không ngừng được mở rộng; các loại hình giáo dục ra đời đáp ứng như cầu xã hội; các trung tâm học tập cộng đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên ngày càng được mở rộng với sự tham gia của toàn xã hội. Công tác xã hội hoá chưa bao giờ được coi trọng và đẩy mạnh như ngày nay. Để làm được điều đó, chính là nhờ chúng ta đã nhận thức đúng đắn được quan điểm của Người về "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng" để phát triển tới quan điểm đúng đắn “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của đất nước, của dân tộc”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người với những giá trị lớn lao mà ngày nay chúng ta vẫn chưa thấu hiểu hết. Những đóng góp của Người trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới thật xứng đáng là một “vị anh hùng giải phóng dân tộc” và là “một nhà văn hóa kiệt xuất”. Không phải nhẫu nhiên mà năm 1987, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, UNESCO đã ra Nghị quyết, khẳng định: “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục là một hệ thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Nếu những quan điểm ấy đã được thực hiện, từ đó đem lại những thành tựu và niền tự hào to lớn cho nền giáo dục mới Việt Nam trong mấy thập niên cách mạng và kháng chiến thì trong thời đại ngày nay, với sự phát triển không ngừng của đất nước cũng như của nhân loại ngày càng đặt ra nhiều đòi hỏi lớn lao đối với nền giáo dục và đào tạo nước nhà, đòi hỏi chúng ta lại càng phải đẩy mạnh nghiên cứu những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục, từ đó có những ứng dụng thích hợp, kịp thời, nhằm đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà tiến lên phía trước, đáp ứng sự mong đợi của toàn xã hội và yêu cầu hội nhập, phát triển mà xã hội đã đặt ra.
Tìm hiểu và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục, chính là để mở ra con đường hội nhập và phát triển đúng đắn của Việt Nam chúng ta giai đoạn hiện nay và cả sau này, với đường lối chiến lược “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của đất nước, của dân tộc”, chính là sự kế thừa và phát huy những tư tưởng đúng đắn, sáng suốt với tầm nhìn vượt trước thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục. Đó cũng là lý do mà từ gần 80 năm trước, nhà thơ Xô Viết Ôxíp Mendenxtan khi tìm hiểu về Hồ Chí Minh đã phải kinh ngạc mà nhận xét: Từ Hồ Chí Minh đã tỏa ra một thứ văn hóa không phải chỉ của quá khứ và hiện tại mà còn là tiêu biểu cho nền văn hóa của tương lai. Điều đó không có gì làm lạ khi từ lâu chúng ta đã hiểu Hồ Chí Minh không chỉ là sự hội tụ của tinh hoa văn hóa, trí tuệ dân tộc và nhân loại mà Người còn là tương lai của nước Việt Nam ngàn năn văn hiến này. Đó là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta. Đó là những giá trị mà Hồ Chí Minh, đại diện cho cả dân tộc Việt Nam đóng góp làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của nhân loại.
Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng chúng ta trên con đường xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; trong đó giáo dục và đào tạo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay, không gì hơn là chúng ta bắt đầu học tập và vận dụng từ chính những tư tưởng đạo đức của Người về giáo dục và đào tạo, mà ở trên đây mới chỉ là những phân tích sơ lược nhất.
Nhất Nguyên
|
Thứ năm, 24 Tháng 1 2013 21:50
(GD&TĐ) - Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của quá trình giáo dục ở trường trung học phổ thông. Đó là các hoạt động được tổ chức định kì 2 tiết/1 tháng ở trên lớp, đó là sự tiếp nối, bổ sung, hỗ trợ hoạt động dạy học ở trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, góp phần hình thành tình cảm và niềm tin của học sinh.
Tuy nhiên, việc tổ chức tiết NGLL hiện nay có rất nhiều bất cập cần quan tâm giải quyết trong thời gian tới nếu không tiết NGLL sẽ không hiệu quả và nhàm chán, gây phản cảm đối với học sinh. Bởi lẽ:
Trong tất cả các tiết NGLL ở các tháng đều do giáo viên chủ nhiệm quản lí, hướng dẫn, giảng dạy. Vì vậy, tính hiệu quả sẽ rất khó đánh giá, bởi lẽ các giáo viên chủ nhiệm họ không được đào tạo, hướng dẫn giảng dạy các tiết NGLL, nên mặc dù chung sách giáo viên nhưng mỗi người giảng dạy một kiểu, hay nói cách khác là họ không có chuyên môn trong việc dạy các tiết NGLL, thậm chí có những giáo viên giao hẳn tiết đó cho học sinh tự trao đổi thảo luận, nêu tính hiệu quả của các tiết ấy không cao, dẫn đến cả người dạy và học sinh thấy trở nên nhàm chán, nặng nề, không đảm bảo được mục đích, yêu cầu của tiết học.
 |
Ảnh MH |
Để tiết NGLL có hiệu quả yêu cầu phải có đủ thời gian cho giáo viên chuẩn bị, nghiên cứu nhiều cách tổ chức giảng dạy để mang lại hiệu quả và tạo hứng thú cho học sinh, tuy nhiên hiện nay giáo viên chủ nhiệm chỉ được tính 4,75 tiết trên một tuần trong đó bao gồm cả 2 tiết NGLL và 1 tiết hướng nghiệp. Vì vậy, nếu mức tiêu chuẩn của 1 giáo viên là 17 tiết/ tuần mà họ lại giảng dạy nhiều lớp: giáo viên dạy địa, sử, công dân...,các môn đó thường chỉ có 1 tiết/1 vì vậy họ phải dạy nhiều lớp, đồng nghĩa với việc bỏ nhiều thời gian đầu tư cho hồ sơ sổ sách, kiểm tra, nắm tình hình lớp, gặp gỡ phụ huynh học sinh.... thì họ còn thời gian đâu mà nghiên cứu, đầu tư cho tiết học NGLL....
Mục đích của các tiết NGLL là giúp học sinh hiểu về các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhận loại, bổ sung, củng cố, nâng cao, mở rộng kiến thức được học trên lớp, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, định hướng nghề cho bản thân, đồng thời hoàn thiện các năng lực cần có của học sinh khi ra trường như năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức quản lí, năng lực hợp tác....đồng thời giúp học sinh có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết phân biệt, đánh giá để tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân mình....Như vậy khẳng định việc học tiết ngoài giờ lên lớp là hết sức cần thiết. Vì vậy:
Để tiết NGLL mang lại hiệu quả cao nên có giáo viên riêng của các tiết học ấy, hoặc mở các lớp tập huấn cho giáo viên chủ nhiệm để họ có thêm chuyên môn, kĩ năng trong việc giảng dạy. Đồng thời với việc cung cấp thêm tài liệu cho các giáo viên để tiết họ thật sự hiệu quả, đồng thời tăng thêm tiết cho các giáo viên chủ nhiệm để họ có thời gian nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp trong việc tổ chức tiết học NGLL để tiết học mang lại hiệu quả cao, tạo hứng thú học cho học sinh đúng nghĩa với ý nghĩa, mục đích của chương trình mang lại.
Vĩnh Lương
Thứ năm, 24 Tháng 1 2013 19:18
(GD&TĐ) - Đồ dùng dạy học bao gồm các thiết bị dạy học mà nhờ đó giáo viên minh họa, truyền thụ kiến thức cho học sinh, là nội dung nguồn thông tin giúp giáo viên điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy – học trong nhà trường;
Đồ dùng dạy học là một công cụ không thể thiếu đối với một giáo viên đứng lớp. Nó là một dụng cụ trực quan, sinh động giúp cho giáo viên truyền đạt kiến thức đến học sinh một cách hiệu quả nhất. Vì vậy việc nghiên cứu về đồ dùng dạy dọc một cách khoa học và đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học là một vấn đề cần thiết và bức bách. Đòi hỏi chúng ta phải có suy nghĩ tích cực về nó thì mới đạt được hiệu quả mong muốn cao nhất.
Trong nhà trường trung học cơ cở (THCS) hiện nay đồ dùng dạy học trong thiết bị một số đã bị hư hỏng, một số khác không còn sử dụng được, do nhiều nguyên nhân như: Thời gian, Không có nơi cất giữ đúng quy định (do những năm trước đây cơ sở vật chất còn nghèo, không đảm bảo), do bảo quản, do lũ lụt… và cũng có nguyên nhân đồ dùng kém chất lượng…nên không còn sử dụng được. Nhiều bài học lại không có đồ dùng dạy học, nhất là những trường vùng sâu vùng xa, nên việc làm đồ dùng dạy học trong giai đoạn hiện nay trong nhà trường THCS là hết sức cần thiết. Nó giúp cho việc truyền thụ kiến thức của người giáo viên đến học sinh một cách có hiệu quả nhất. Từ đó có thể nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường hiện nay.
* Giải pháp về về việc tự làm đồ dùng dạy học đạt hiệu quả trong trường THCS.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa 6, 7, 8, 9 và tra cứu lại xem bài nào có đồ dùng trong thiết bị và bài nào không có… từ đó giáo viên nghiên cứu suy nghĩ để thiết kế ra sản phẩm ưu việt nhất nhằm phục vụ việc giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất.
- Từ việc nghiên cứu trên chúng ta thống kê lại những bài nào có dạng giống nhau để chúng ta có thể làm 1 đồ dùng mà dạy được nhiều bài nhất.
- Mang ra bàn bạc với tổ chuyên môn để thống nhất trong việc làm các đồ dùng.
- Tận dụng các vật liệu bỏ đi để làm đồ dùng từ giáo viên và học sinh như: ván ép, lịch phong cảnh, Lịch lock…
- Sau đó lên kế hoạch và tiến hành làm đồ dùng đưa ra giảng dạy và dự giờ rút kinh nghiệm.
Ví dụ 1: Trong bộ môn ngữ văn khối 6, 7, 8, 9 chúng ta chọn ra những bài có nội dung gần nhau. Từ đó mang ra thống nhất làm đồ dùng dạy học, nhằm mục đích khi đã làm một sản phẩm đồ dùng dạy học dạy được nhiều bài hơn như: trong chương trình ngữ văn 6 bài 21 chương trình địa phương phần tiếng việt – Rèn luyện chính tả (SGK trang 43) và khối 7 có bài 34 chương trình địa phương phần tiếng Việt – Rèn luyện chính tả (SGK trang 148 cả hai bài có nội dung giống nhau là rèn chính tả.
Cả hai bài này tập trung vào rèn các lỗi chính tả như:
Các phụ âm đầu như: tr và ch; s và x; r,d và gi; v và d.
Các phụ âm cuối như: c và t; n và ng;
Các nguyên âm như: i và iê.
Từ đó chúng ta đi đến làm “Bảng rèn chính tả” để dạy 2 bài này.
Bảng rèn luyện chính tả này chúng ta có các từ cho trước nhưng khuyết các thành phần thường mắc lỗi như đã nói ở trên. Các phần khuyết này chúng ta dán vào một miếng ván ép nhỏ vừa đủ dán vào phần khuyết.
Chúng ta đọc các từ đó lên và kết hợp với bảng này và cho các em lấy dán xuống phần khuyết. Sau đó cho học sinh nhận xét và đi đến kết luận đúng hay sai.
Qua bảng này, các em có thể thị phạm một cách trực quan, dễ hiểu. Giáo viên rất dễ dàng cho các em rèn luyện chính tả. (Chúng ta có thể tạo thêm nhiều từ mới dán vào nhiều miếng ván ép nhỏ để các em có thể mở rộng thêm)
 |
(Bảng rèn chính tả - Giải B cấp tỉnh 2011 – của tác giả) |
Ví dụ 2: Giáo viên có thể sưu tầm lịch phong cảnh, lịch lock (ở gia đình hoặc ở học sinh…) để làm đồ dùng.
Lịch lock hoặc lịch phong cảnh giáo viên có thể tận dụng 2 mặt: Mặt sau (trống) giáo viên có thể viết những ví dụ phần tiếng việt, hay những ngữ liệu ca dao, tục ngữ, những ví dụ phần tiếng việt, như một bảng phụ để phân tích cho học sinh từ đó đi vào phần nội dung bài học rất hiệu quả. Mặt có phong cảnh chúng ta có thể chọn cảnh phù hợp để dạy các bài của môn văn hay môn giáo dục công dân cũng rất tốt. ví dụ cảnh chùa một cột, cảnh vịnh Hạ Long, cảnh Động phong nha… dạy các bài học về cảnh đẹp đất nước Việt Nam…
* Ngoài ra chúng ta còn có thể chọn nhiều bài có hình thức giống nhau để làm đồ dùng trên một bảng phụ như dạy bài các kiểu câu, bài cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ làm một đồ dùng dạy học cho các bài này.
Nếu biết tận dụng các đồ vật bỏ đi xung quanh chúng ta, giáo viên có thể thiết kế những đồ dùng dạy học rất tốt và đạt hiệu quả cao trong dạy học…
Để thực hiện tốt việc tự làm đồ dùng dạy học này đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề chịu khó nghiên cứu kỉ chương trình sách giáo khoa, phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và lãnh đạo để sửa chữa cho phù hợp.
Phải có sự hưởng ứng chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí từ nhà trường đễ đề tài đạt chất lượng cao.
* Hiệu quả áp dụng
Việc tự làm đồ dùng dạy học có thể giúp cho người dạy có thể dễ dàng truyền thụ tri thức, người học dễ dàng lĩnh hội tri thức. Và có thể mang lại một kết quả tốt nhất trong quá trình giáo dục. Giúp giảm học sinh yếu kém, tăng học sinh khá giỏi, từ đó học sinh thích học môn của mình giảm học sinh bỏ học…
Nếu làm tốt đồ dùng dạy học thì học sinh sẽ tích cực học tập, hứng thú hơn trong quá trình tiếp thu bài, nâng cao chất lượng học tập góp phần nâng tỉ lệ học sinh khá giỏi cho nhà trường.
Có thể làm bất cứ nơi đâu, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn… cũng có thể làm được và mang lại hiệu quả ngang nhau.
Thái Công Trường Giang
|